1. Mèo Và Triết Lý Nhân Sinh
Nếu loài mèo quay sang hứng thú với triết học thì đây sẽ là một nhánh thú vị của trường phái hư cấu kì khôi. Thay vì coi đây là liều thuốc chữa chứng lo âu, những triết gia mèo sẽ tham gia vào môn triết học như thể đây là một trò chơi vậy.
Nhưng loài mèo không cần triết học. Tuân theo bản chất tự nhiên của mình, chúng hài lòng với những gì cuộc sống đem lại. Loài người thì ngược lại, họ bất mãn với bản chất của mình như thể đó là điều tự nhiên. Bất chấp những kết cục bi thảm và kì khôi có thể đoán trước được, loài động vật mang tên “con người” không bao giờ từ bỏ việc nỗ lực trở thành một thứ gì đó không phải là mình.
Đa số cuộc đời con người là sự chật vật đấu tranh tìm kiếm hạnh phúc. Đối với loài mèo, ngược lại, hạnh phúc là trạng thái mặc định khi những mối đe doạ thực tế nhăm nhe sự tồn tại tốt đẹp của chúng bị loại bỏ. Có lẽ đây là lý do chính mà nhiều người trong số chúng ta yêu loài mèo. Ngay từ khi sinh ra, chúng đã sở hữu niềm hạnh phúc mà con người thường không đạt được.
Những chú mèo không cần phải bận tâm xem xét cuộc đời chúng, bởi chúng chẳng hề nghi ngờ chuyện cuộc đời này có đáng sống hay không. Sự tự ý thức của con người đã tạo ra tình trạng bất ổn vĩnh viễn mà triết học đã luôn cố gắng chạy chữa, nhưng vô ích.
Mèo không lên kế hoạch cho cuộc đời; mà sống cuộc sống xảy đến với chúng. Con người thì lại không thể ngừng biến cuộc đời mình thành một câu chuyện. Nhưng vì họ không thể biết cuộc đời mình sẽ kết thúc như thế nào, nên cuộc sống đã làm gián đoạn câu chuyện mà họ cố gắng kể. Vì vậy, con người đến cuối cùng lại sống như những chú mèo, một cách hết sức tình cờ.
Cuốn sách cho chúng ta một cái nhìn so sánh về cuộc đời của loài mèo và cuộc đời loài người, từ đó để bạn tự nhận ra bản thân đang “lầm đường lạc lối” trong những toan tính của cuộc sống và tự tìm ra con đường bước tới ánh sáng của sự “biết” và “đủ”.
=> Các trích dẫn hay trong sách:
“Mèo có một bản chất phân biệt chúng với các sinh vật khác – ngay cả với chúng ta. Bản chất của loài mèo, và cũng chính là điều chúng ta có thể học được từ chúng, là chủ đề của cuốn sách này. Không một ai từng chung sống với loài mèo có thể coi chúng là những cá thể có thể hoán đổi cho nhau của một loài duy nhất. Mỗi chú mèo đều là đơn nhất và mang tính cá thể hơn so với rất nhiều con người.
Những chú mèo không cần phải bận tâm xem xét cuộc đời chúng, bởi chúng chẳng hề nghi ngờ chuyện cuộc đời này có đáng sống hay không. Sự tự ý thức của con người đã tạo ra tình trạng bất ổn vĩnh viễn mà triết học đã luôn cố gắng chạy chữa, nhưng vô ích.”
“Mèo hạnh phúc khi được là chính mình, trong khi con người cố gắng [trở nên] hạnh phúc bằng cách thoát khỏi bản thân.
Nhưng những người yêu mèo không yêu mèo vì họ nhận ra bản thân mình trong chúng. Họ yêu mèo vì mèo rất khác với họ.Không giống như chó, mèo chưa mang “tính người” trong mình. Chúng tương tác với chúng ta và có thể yêu chúng ta theo cách riêng của mình, nhưng ở tầng sâu thẳm nhất, chúng khác chúng ta. Khi bước vào thế giới con người, loài mèo cho phép chúng ta nhìn xa hơn. Không còn bị mắc kẹt trong chính những suy nghĩ của mình, chúng ta có thể học được từ loài mèo lý do tại sao công cuộc theo đuổi hạnh phúc đầy căng thẳng của chúng ta nhất định sẽ thất bại.”
“Loài mèo dành phần lớn cuộc đời mình trong sự cô đơn đầy mãn nguyện. Vì mọi thứ đều cố gắng tồn tại như những dạng cụ thể của nó, nên không ai có thể thực sự muốn ngừng tồn tại cả. Không ai muốn kết thúc cuộc đời mình: kẻ tự sát là kẻ bị cả thế giới giết chết. Như Spinoza đã đặt nó trong cuốn Đạo đức học: ”Không có gì có thể tự phá hủy, trừ khi [bị tác động] bởi một nguyên nhân bên ngoài”.
“Là những kẻ săn mồi, phát triển khả năng đồng cảm lên mức độ cao sẽ gây rối loạn chức năng đối với mèo. Đó là lý do tại sao chúng thiếu năng lực này. Đó cũng là lý do tại sao niềm tin phổ biến cho rằng mèo là loài độc ác bị coi là sai lầm. Sự tàn nhẫn là sự đồng cảm ở dạng tiêu cực. Trừ khi bạn cảm nhận vì người khác, bạn không thể vui sướng trước nỗi đau của người khác. Con người thể hiện sự đồng cảm tiêu cực này khi họ hành hạ mèo vào thời trung cổ. Ngược lại, khi mèo vờn một con chuột bị bắt, chúng sẽ không thích thú với sự dày vò đó. Việc vờn con mồi thể hiện bản chất săn mồi của chúng. Thay vì tra tấn những sinh vật nằm dưới quyền lực của mình – một xu hướng đặc biệt chỉ có ở con người – mèo chỉ đơn giản là đang chơi với những con mồi.”
2. Ngài Cóc Đi Gặp Bác Sĩ Tâm Lý - Bìa Cứng
Trong cuộc sống, chắc hẳn chúng ta cũng có những lúc phải đối mặt với bệnh trầm cảm. Điều quan trọng là mọi người sẽ đối mặt và ứng phó với căn bệnh tâm lý ấy như thế nào.
Trầm cảm rất nguy hiểm và cần được quan tâm đúng cách. Không hề vô lý khi một thực tại đáng buồn đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta, ấy là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất dẫn tới cái chết của những người trẻ tuổi trên thế giới chính là “trầm cảm”. Dù vậy, căn bệnh tâm lý này vẫn là một câu hỏi hóc búa đối với đại đa số chúng ta, không phải vì chúng ta chưa đề cao tầm quan trọng của việc nghiên cứu về nó, mà bởi nó quá khô khan khó hiểu, nhất là đối với những người trẻ.
“Ngài Cóc đi gặp bác sĩ tâm lý” bao hàm những tri thức trong các bài giảng của Robert de Board về chủ đề tham vấn tâm lý tại Trường Đại học Quản trị Henley, chứa đựng những chân lý được chắt lọc mà ông đã rút ra từ trong thực tế, trở thành tài liệu sơ lược cho những người đang tìm hiểu, nghiên cứu về bệnh trầm cảm, về tham vấn tâm lý và tham gia công tác giảng dạy.
Tác giả đã sử dụng các nhân vật trong tác phẩm “Gió qua rặng liễu” của nhà văn Mỹ Kenneth Grabam như bác Lửng, Chuột Nước, Chuột Chũi và sáng tạo nên một nhân vật mới, ông Diệc, người tham vấn đồng thời cũng là nhân vật đại diện cho chính tác giả, để dẫn dắt người đọc bằng lối kể chuyện hấp dẫn của mình. Vai trò của ông Diệc trong câu chuyện là thay những con vật ở bờ sông giúp đỡ người bạn không may của họ là Cóc đối mặt với căn bệnh trầm cảm. Qua đó, trải nghiệm tham vấn tâm lý của Cóc cũng sẽ thu hút trí tưởng tượng của lượng lớn độc giả đang gặp phải những phiền muộn, bế tắc trong cuộc sống và muốn tìm một lối đi đúng. Khi độc giả dần hiểu hơn về Cóc, họ cũng có thể thấu hiểu bản thân hơn, đồng thời được thôi thúc để bước lên con đường cải thiện và phát triển về mặt tâm lý.
Cuốn sách giúp chúng ta hiểu rằng:
• Đừng nên trốn tránh, hãy đối diện với những cảm xúc thực tế của chính mình.
• Đừng tự phán xét, hãy yêu thương bản thân trước, có như vậy mới yêu thương được người khác.
• Tất cả những gì tạo nên hạnh phúc và bất hạnh của bạn ở hiện tại đều đến từ quá khứ và thuở ấu thơ, bởi thế, hãy nhìn thấu bản thân bằng cách hiểu rõ về quá khứ của chính mình.
• Thay vì đổ lỗi, hãy chịu trách nhiệm.
Cuốn sách này giống như một ngọn đèn, nó sẽ giúp chúng ta bình tâm lại và suy ngẫm, từ ấy vượt qua màn đêm đen tối của cuộc đời.
2. Thông tin tác giả:
Robert de Board là một thành viên có tiếng và nổi bật của cộng đồng Henley, một giảng viên hàn lâm, một tác giả thành công và một nhà thơ. Việc chuyển sang lĩnh vực học thuật đã giúp ông có thời gian và động lực để viết ba cuốn sách giáo trình về Tâm lý học tổ chức. Trong đó, cuốn sách thành công nhất của ông là “Ngài Cóc đi gặp bác sĩ tâm lý”(Tên tiếng Anh: Counseling for Toads: A Psychological Adventure), tính đến nay đã bán được hơn 120.000 bản trên thị trường quốc tế, còn riêng ở Trung Quốc cuốn sách này bán được hơn 1 triệu bản và được dịch ra sáu thứ tiếng.
“Ngài Cóc đi gặp bác sĩ tâm lý” đã thành công đến mức nó vẫn được in suốt hơn hai mươi năm sau khi xuất bản lần đầu vào năm 1997 và gần đây nhất, chương trình đố vui Thử thách Đại học (University Challenge) của Anh đã dùng nội dung trong cuốn sách này để đặt câu hỏi cho người chơi tham gia chương trình.
3. Những trích dẫn tâm đắc trong cuốn sách:
3.1 “Điều này có thể hơi thẳng thắn, nhưng Cóc à, chỉ có cậu mới giúp được bản thân cậu thôi. Có rất nhiều câu hỏi mà cậu nên cân nhắc. Ví dụ như Cậu có thể ngưng phán xét bản thân không?, Cậu có thể trở nên tử tế hơn với chính mình không?, và có lẽ câu hỏi quan trọng nhất trong số ấy là Cậu có thể yêu thương bản thân mình không?.”
3.2 Bởi chàng Cóc nhận ra rằng những hành động ăn năn hối lỗi bên ngoài kia thực tế chỉ là một cách để phản kháng lại sự chỉ trích của bác Lửng. Sự ăn năn ấy không hề xuất phát từ trái tim và cũng chẳng đại diện cho những thay đổi thực sự.
3.3 “Chà,” ông Diệc lên tiếng. “Tôi nghĩ sẽ có ích nếu cậu thực sự suy nghĩ về nó. Suy cho cùng, cậu cũng đã đồng ý rằng đây là một trong những cảm xúc cơ bản mà tất cả chúng ta đều có khi vừa mới được sinh ra…”
3.4 “Chẳng có sự chỉ trích nào nặng nề hơn sự tự chỉ trích, và cũng chẳng có vị Thẩm phán nào khắc nghiệt hơn chính chúng ta,” ông Diệc đáp lời.
“Trời đất,” chàng Cóc kêu lên. “Ý ông là chúng ta có thể tự trừng phạt bản thân sao?”
“Nặng nề là đằng khác,” ông Diệc đáp. “Bao gồm cả tra tấn và trong một vài trường hợp nghiêm trọng là tử hình. Nhưng vấn đề ở đây là, cho dù mức án có nhẹ đi chăng nữa, nó cũng có thể kéo dài cả đời.”
3.5 “Thay vì đổ lỗi, tại sao chúng ta không chịu trách nhiệm?”
Một khoảng lặng kéo dài và kéo dài rất lâu. “Tôi không chắc mình theo kịp điều ông vừa nói,” cuối cùng chàng Cóc cũng cất lời, nhỏ giọng. “Ý ông là tôi nên tự chịu trách nhiệm đối với hành động của mình ư?”
“Và đối với cả cảm xúc của cậu nữa,” ông Diệc trả lời.“Đây là hành động rất Người trưởng thành, và dĩ nhiên nó cũng sẽ vô cùng khó khăn. Nhưng nó có ưu điểm to lớn hơn so với việc đổ lỗi cho người khác.”
“Đó là gì vậy?” Chàng Cóc hỏi.
“Nó có nghĩa là cậu có thể bắt đầu làm điều gì đó với chúng. Nếu cậu tự chịu trách nghiệm với bản thân, cậu nhận ra rằng cậu là người nắm quyền kiểm soát. Từ đó, cậu biết rằng mình có khả năng thay đổi hoàn cảnh của mình, và quan trọng hơn cả là thay đổi chính mình.”